[PR]上記の広告は3ヶ月以上新規記事投稿のないブログに表示されています。新しい記事を書く事で広告が消えます。
Công ty cổ phần dược phẩm Hải Phòng.
Hộp 10 vỉ, mỗi vỉ 10 viên.
Viên nén.
Một viên thuốc Sedachor gồm có:
– Paracetamol 200mg.
– Cafein 50mg.
– Tá dược vừa đủ 1 viên.
– Paracetamol:
+ Là chất chuyển hóa có hoạt tính như Phenacetin. Giảm đau bằng cách ức chế tác động của enzym Cyclooxygenase trong quá trình tổng hợp PG.
+ Thường được dùng để giảm đau, hạ sốt, đặc biệt là ở người cao tuổi, người có chống chỉ định với Salicylat hay các thuốc NSAID khác.
+ Giúp hạ thân nhiệt ở người bị sốt rất nhanh do tác động lên vùng dưới đồi điều hòa thân nhiệt, tăng giãn mạch và lưu lượng máu ngoại vi.
– Cafein có tác dụng kích thích nhẹ lên hệ thần kinh trung ương, tăng cường tác dụng giảm đau của Paracetamol. Đồng thời giúp hoạt động cơ một cách dễ dàng, giảm mệt mỏi.
Thuốc Sedachor được dùng để điều trị trong các trường hợp sau:
– Giảm cơn đau từ nhẹ đến vừa như:
– Đau đầu, đau nửa đầu, đau do sốt sau khi tiêm Vacxin.
– Đau cơ bắp, đau bụng kinh, đau họng, đau răng.
– Đau nhức do viêm xoang, cảm lạnh hay cảm cúm.
– Hạ sốt mọi nguyên nhân kể cả trường hợp chống chỉ định với Aspirin hay các thuốc NSAID.
– Dùng đường uống.
– Uống cùng nước lọc hoặc nước đun sôi để nguội. Không dùng với các nước khác khi không có chỉ định của bác sĩ.
– Thời điểm dùng: uống khi có cơn sốt, hay giảm đau khi cần thiết.
Tùy thuộc vào độ tuổi, tình trạng bệnh nhân, thuốc Sedachor có liều dùng cụ thể như sau:
– Người lớn và trẻ em trên 12 tuổi:
+ Uống 2-4 viên/lần.
+ Không dùng quá 20 viên/ngày.
– Trẻ từ 9-12 tuổi: uống 1-2 viên/lần.
– Nếu cần thiết thì có thể uống nhắc lại thêm 1 liều, cách từ 4-6 giờ.
– Quên liều: thuốc được sử dụng khi thực sự cần thiết, hiếm khi xảy ra quên liều. Không dùng 2 liều cùng một lúc.
– Quá liều:
+ Triệu chứng: buồn nôn, nôn, đau bụng, da xanh tím, rối loạn ý thức, thậm chí gây hoại tử gan khi uống quá liều trong thời gian dài.
+ Xử trí: thông báo ngay cho bác sĩ khi gặp những biểu hiện trên và đến ngay cơ sở y tế gần nhất để có biện pháp điều trị triệu chứng và điều trị hỗ trợ kịp thời.
Không sử dụng thuốc Sedachor trong những trường hợp sau:
– Người mẫn cảm Paracetamol, Cafein hoặc với bất kỳ thành phần nào của thuốc.
– Bệnh nhân bị thiếu hụt Glucose-6- phosphat dehydrogenase (G6PD).
Bên cạnh tác dụng chính, thuốc cũng có một số tác dụng phụ như sau:
– Ít gặp:
+ Hội chứng dạ dày- ruột: nôn, buồn nôn,…
+ Phát ban trên da, giảm bạch cầu trung tính, thiếu máu.
+ Độc tính trên thận khi sử dụng dài ngày.
– Hiếm gặp:
+ Phản ứng quá mẫn.
+ Suy gan nếu dùng liều cao kéo dài.
Nếu bạn gặp phải tình trạng như trên, báo ngay với bác sĩ để được tham vấn và có biện pháp điều trị kịp thời.
Khi sử dụng thuốc Sedachor đồng thời với các thuốc sau có thể gây tương tác:
– Thuốc chống đông nhóm Coumarin, các dẫn chất Indandion: tăng tác dụng chống đông máu.
– Phenothiazin: có thể gây hạ sốt nghiêm trọng.
– Rượu: tăng tác dụng an thần, nếu dùng dài ngày với thuốc, gây độc tính nghiêm trọng trên gan.
– Thuốc chống co giật như Phenytoin, Barbiturat, Carbamazepin,… tăng tính độc hại ở gan.
– Isoniazid: tăng tác dụng phụ của thuốc.
Khi thấy bất kỳ biểu hiện bất thường, báo ngay cho bác sĩ, dược sĩ để được tham vấn và xử trí kịp thời.
– Phụ nữ mang thai:
+ Chưa có đầy đủ dữ liệu lâm sàng về sử dụng thuốc cho phụ nữ mang thai. Nguy cơ có thể xảy ra tác dụng xấu chưa biết được.
+ Hãy cân nhắc giữa lợi ích và rủi ro trước khi sử dụng. Tham khảo với bác sĩ trước khi dùng.
– Bà mẹ đang cho con bú: chưa rõ thuốc có bài tiết qua sữa mẹ hay không. Tuy vậy, hãy cẩn trọng khi sử dụng thuốc, tham khảo ý kiến bác sĩ, dược sĩ trước khi dùng.
Thuốc Sedachor có thể dùng được cho những người đang vận hành tàu xe, máy móc vì có chứa Cafein kích thích thần kinh trung ương, không gây buồn ngủ.
– Bảo quản thuốc ở nơi khô ráo thoáng mát, nhiệt độ dưới 30 độ C.
– Tránh tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng.
– Để tránh xa tầm tay trẻ em.
Thuốc hiện được bán tại rất nhiều nhà thuốc, quầy thuốc trên toàn quốc với mức giá khác nhau. Tuy nhiên, không phải cơ sở nào cũng đảm bảo an toàn về chất lượng. Do đó, để mua được thuốc với chất lượng tốt, cũng như giá cả hợp lý, hãy liên hệ với chúng tôi thông qua website hoặc số hotline.
Ưu điểm
– Giá cả hợp lý, phù hợp với bệnh nhân.
– Dạng viên nén, dễ sử dụng và bảo quản.
– Dùng được cho đối tượng lái xe, vận hành máy móc.
– Hiệu quả giảm đau, hạ sốt nhanh mà không gây buồn ngủ.
Nhược điểm
– Chưa có nghiên cứu rõ ràng đối với phụ nữ có thai và cho con bú.
– Không dùng được cho trẻ em dưới 9 tuổi.
Công ty dược phẩm Eli Lilly – Indiana, Hoa Kỳ.
Hộp 1 lọ x 10 ml.
Dung dịch tiêm.
Trong mỗi lọ thuốc có chứa:
– Insulin 100 IU/1ml.
– Tá dược vừa đủ 10 ml.
– Thuốc chứa hoạt chất là Insulin người sản xuất theo công nghệ tái tổ hợp gen, có tác dụng giống như Insulin được bài tiết tự nhiên trong cơ thể người.
– Insulin là 1 hormon do tế bào Beta tuyến tụy tiết ra, nhằm điều chỉnh và giữ cho nồng độ Glucose trong máu ở mức bình thường.
– Cơ chế hạ đường huyết của Insulin: Làm tăng việc sử dụng Glucose của tế bào, nhất là tế bào cơ. Mặt khác, nó cũng làm tăng quá trình tân tạo Glycogen từ Glucose ở gan, từ đó giúp cho lượng đường máu giảm xuống.
– Bệnh nhân bị đái tháo đường cần phải dùng Insulin để duy trì nồng độ đường trong máu.
– Kiểm soát đường huyết đối với phụ nữ có thai bị đái tháo đường thai kỳ.
Thuốc được dùng theo đường tiêm dưới da hoặc tiêm tĩnh mạch.
– Đối với tiêm dưới da (da bụng, da đùi, cánh tay trên hoặc mông): tiêm trước khi ăn 30 phút.
+ Đầu tiên, sát khuẩn vị trí tiêm bằng cồn 70 độ.
+ Sát khuẩn tay bằng cồn 70 độ hoặc đeo găng tay y tế.
+ Đưa mũi kim tiêm vào vị trí cần tiêm và bắt đầu tiêm theo đúng kĩ thuật tiêm dưới da đã được nhân viên y tế hướng dẫn.
+ Rút kim tiêm, làm sạch vùng da vừa tiêm bằng cồn 70 độ.
+ Cần phải thay đổi vị trí tiêm nếu tiêm thuốc thường xuyên, không tiêm chồng lên chỗ cũ.
– Đối với tiêm tĩnh mạch: thuốc được tiêm với tốc độ chậm và được thực hiện bởi nhân viên y tế có chuyên môn.
Sử dụng theo chỉ dẫn của bác sĩ.
– Quên liều: ngay khi phát hiện quên liều cần phải hỏi ý kiến bác sĩ về việc bổ sung liều vừa quên.
– Quá liều: có thể gây ra hiện tượng tụt đường huyết quá mức và hạ kali máu. Nếu không may sử dụng quá liều, cần đưa tới bệnh viện để xử lý, điều trị kịp thời.
Không sử dụng thuốc trên những đối tượng bệnh nhân sau:
– Phản ứng mẫn cảm với bất kì thành phần nào của thuốc.
– Người đang hoặc mới xảy ra tình trạng hạ đường huyết.
Một số phản ứng phụ của thuốc:
– Thường gặp nhất: hiện tượng hạ đường huyết.
– Hay gặp: mẩn đỏ, sưng nề, ngứa tại vị trí tiêm. Tuy nhiên, phản ứng này thường mất sau vài ngày tới vài tuần.
– Rất hiếm gặp:
+ Phản ứng quá mẫn: phát ban, nổi mẩn ngứa toàn thân, khó thở, hen, tụt huyết áp, mạch nhanh, vã mồ hôi. Các trường hợp này cần phải đưa ngay tới cơ sở y tế gần nhất để xử trí và cấp cứu kịp thời.
+ Rối loạn phân bố mỡ tại vị trí tiêm.
– Có thể phải tăng liều Insulin khi sử dụng cùng với các thuốc gây tăng đường huyết:
+ Thuốc thuộc nhóm Glucocorticoid.
+ Hormon tuyến giáp.
+ Thuốc cường Beta giao cảm.
– Điều chỉnh giảm liều Insulin nếu dùng kết hợp với:
+ Thuốc hạ đường huyết khác.
+ Dẫn chất salicylat.
+ Thuốc chống trầm cảm (IMAO).
+ Thuốc ức chế men chuyển: Captopril, Enalapril,…
+ Thuốc ức chế thụ thể Angiotensin II.
+ Thuốc chẹn Beta giao cảm không chọn lọc.
+ Rượu.
– Kết hợp với Pioglitazone: có thể gây suy tim ở bệnh nhân có nguy cơ bị bệnh tim, do đó cần phải cân nhắc trước khi sử dụng.
Chưa có báo cáo nào trên lâm sàng về nguy cơ gây dị tật thai nhi hoặc xảy ra phản ứng có hại đối với trẻ đang bú sữa mẹ. Mặc dù vậy, khi điều trị với Insulin, cần theo dõi cẩn thận lượng đường trong máu và nồng độ kali huyết để điều chỉnh liều lượng và chế độ sinh hoạt cho phù hợp.
Do tác dụng tụt đường huyết của Insulin, người lái xe và vận hành máy móc sẽ bị giảm khả năng tập trung. Điều này đem tới rủi ro cao trong việc xử lý tình huống của người điều khiển phương tiện. Vì vậy, cần phải cân nhắc việc sử dụng thuốc cho đối tượng này.
– Cần phải đổi vị trí tiêm dưới da thường xuyên.
– Trước khi tiêm, quan sát cẩn thận màu sắc dung dịch, hạn sử dụng trên bao bì để chắc chắn không có gì bất thường, thuốc tiêm đảm bảo độ an toàn và ổn định.
– Để sản phẩm ở nơi khô ráo, tránh ánh sáng trực tiếp.
– Không được để ở ngăn đá tủ lạnh.
– Lọ chưa mở: Bảo quản ở nhiệt độ từ 2-8 độ C.
– Sau sử dụng lần đầu: Bảo quản dưới 30 độ C.
Thuốc được sản xuất bởi công ty nước ngoài và được nhập khẩu về Việt Nam nên có giá thành tương đối cao. Để được tư vấn cũng như mua được sản phẩm chính hãng, giá cả hợp lý, khách hàng hãy liên hệ với chúng tôi qua số hotline ở trên.
– Tác dụng tốt.
– Hiệu quả nhanh, tức thời.
– Sinh khả dụng cao.
– Dùng được cho cả trẻ em, phụ nữ có thai và cho con bú.
– Giá thành khá cao.
– Thuốc tiêm đòi hỏi kỹ thuật tiêm.
– Nổi mẩn đỏ, sưng tấy tại vị trí tiêm trong thời gian đầu.
– Hay gặp rối loạn tiêu hóa.
– Ảnh hưởng tới khả năng điều khiển phương tiện và vận hành thiết bị.
Công ty Mega Lifesciences (Australia) Pty., Ltd-Úc.
Mỗi lọ gồm 30 viên.
Viên nén bao phim.
– Acid Ascorbic 400mg.
– Sodium Ascorbate 350mg.
– Calcium Ascorbate 400mg.
– Tá dược vừa đủ.
– Acid Ascorbic và các muối Ascorbat là các dạng chủ yếu của vitamin C. Đây là vitamin được cung cấp từ bên ngoài do cơ thể không thể tổng hợp được.
– Acid Ascorbic: bị oxy hóa tạo thành acid dehydroascorbic, đây là phản ứng oxy hóa khử thuận nghịch, qua đó Vitamin C có tác dụng như một đồng yếu tố (cofactor).
– Acid Ascorbic còn tham gia vào nhiều phản ứng hóa sinh trong cơ thể. Ví dụ như: Hydroxyl hóa, amid hóa, làm dễ dàng sự chuyển prolin, lysin sang hydroxyproline và hydroxylysine (trong tổng hợp collagen), giúp dễ hấp thu sắt,…
– Ngoài ra, nó còn là chất bảo vệ chống oxy hóa hữu hiệu vì có thể loại bỏ ngay các loại oxy, nitơ hoạt động, các oxy tự do và các hypoclorit, là những thành phần độc hại cho cơ thể.
– Trong invitro, đã chứng minh được tác dụng chống oxy hóa LDL- tác nhân gây xơ vữa động mạch, bằng cách loại bỏ ROS và RNS có trong môi trường nước.
Thuốc Nat-C 1000 được sử dụng trong các trường hợp:
– Các chứng chảy máu do thiếu vitamin C.
– Bệnh Scorbut.
– Thiếu máu do thiếu sắt.
– Sức đề kháng của cơ thể suy giảm trong bệnh: cảm cúm, nhiễm độc, nhiễm khuẩn, cảm lạnh,…
– Phối hợp với các thuốc chống dị ứng.
Uống vào buổi sáng/ trưa sau khi ăn, uống với một lượng nước lớn.
Tùy vào từng trường hợp cụ thể mà liều lượng thuốc được sử dụng cho thích hợp. Dùng theo chỉ định của bác sĩ hoặc có thể tham khảo liều dùng sau:
– Trong bệnh thiếu vitamin C (Scorbut):
+ Dự phòng: 25 – 75 mg mỗi ngày (người lớn và trẻ em).
+ Ðiều trị: Người lớn với liều 250 – 500 mg/ngày chia thành nhiều liều nhỏ, uống ít nhất trong 2 tuần.
+ Trẻ em: 100 – 300 mg/ngày chia thành nhiều lần, uống ít nhất trong 2 tuần.
– Phối hợp với Desferrioxamine để tăng thêm đào thải sắt (do tăng tác dụng chelat – hóa của Desferrioxamin), liều vitamin C: 100 – 200 mg/ngày.
– Methemoglobin – huyết khi không có sẵn xanh methylen: 300 – 600 mg/ngày chia thành liều nhỏ.
– Bổ sung vào chế độ ăn: Người lớn từ 50 – 200 mg/ngày. Trẻ em: từ 35 – 100 mg/ngày.
– Phòng và điều trị cảm lạnh: 1 – 3g/ngày, chia thành nhiều lần dùng.
– Trường hợp quên 1 liều thì phải dùng càng sớm càng tốt. Nếu khoảng thời gian gần với liều kế tiếp thì không nên bù nữa mà nên sử liều kế tiếp như kế hoạch.
– Trường hợp dùng quá liều:
+ Có thể gặp các triệu chứng: buồn nôn, sỏi thận, viêm dạ dày, ỉa chảy.
+ Có thể gây lợi tiểu bằng truyền dịch hoặc nặng hơn thì phải đưa đến các cơ sở y tế để cấp cứu ngay. Người nhà cần mang theo đơn thuốc bệnh nhân đã sử dụng bao gồm cả thuốc kê đơn và không kê đơn.
Không được dùng Nat-C 1000 trong các trường hợp:
– Dùng liều cao cho các bệnh nhân đang điều trị thiếu máu do thiếu glucose – 6 – phosphate dehydrogenase (G6PD).
– Người bị bệnh Thalassemia do tăng nguy cơ hấp thu sắt.
– Người có tiền sử sỏi thận, tăng và loạn chuyển hóa oxalat.
– Tác dụng phụ thường gặp nhất ở thận là tăng oxalat niệu.
– Ngoài ra thì còn có một số tác dụng phụ ít gặp như:
+ Máu: Thiếu máu tan máu.
+ Tim mạch: Suy tim, bừng đỏ.
+ Thần kinh trung ương: Xỉu, chóng mặt, nhức đầu, mệt mỏi, mất ngủ.
+ Dạ dày – ruột: Co cứng cơ bụng, buồn nôn, nôn, ợ nóng, ỉa chảy.
+ Thần kinh – cơ và xương: Ðau cạnh sườn.
Nat-C 1000 có thể xảy ra tương tác với một số thuốc như sau:
– Với sắt nguyên tố: làm tăng hấp thu sắt qua đường dạ dày – ruột khi sử dụng theo tỷ lệ Vitamin C/ sắt nguyên tố = 200mg/30mg.
– Với Aspirin: làm tăng bài tiết Vitamin C và giảm bài tiết Aspirin trong nước tiểu.
– Với Fluphenazin: làm giảm nồng độ Fluphenazin huyết tương.
– Với Salicylate:
+ Salicylate ức chế bạch cầu và tiểu cầu hấp thu acid Ascorbic nên nồng độ acid Ascorbic ở bạch cầu và ở huyết tương bị giảm (chỉ cao hơn chút ít so với người bị thiếu hụt acid Ascorbic ở mô).
+ Vẫn chưa có bằng chứng về việc dùng Salicylat làm thúc đẩy tình trạng thiếu Vitamin C. Dù vậy, vẫn cần phải đánh giá tình trạng thiếu hụt khi người bệnh dùng liều cao salicylat mà không xuất hiện triệu chứng thiếu Vitamin C.
– Vitamin C liều cao làm:
+ Giảm hấp thu selen vì vậy nên uống cách nhau ít nhất 4 giờ.
+ Làm tăng tác dụng của nhôm hydroxyd và làm giảm tác dụng của Amphetamin.
+ Có thể phá hủy Vitamin B12.
– Nếu có Vitamin C trong nước tiểu sẽ làm xuất hiện tình trạng tăng giả lượng glucose nếu định lượng bằng thuốc thử đồng (II) sulfat và giảm giả lượng glucose nếu định lượng bằng phương pháp glucose oxydase.
– Ngoài ra có báo cáo cho rằng Vitamin C làm giảm tác dụng thuốc chống đông máu Warfarin.
Bên cạnh đó, cần tránh sử dụng rượu, bia, thuốc lá,… trong quá trình sử dụng Nat-C 1000.
– Đối với thời kỳ mang thai: Nếu dùng Nat-C 1000 theo liều dùng thông thường thì không thấy bất kỳ vấn đề nào xảy ra. Tuy nhiên, khi dùng một lượng lớn Vitamin C trong khi mang thai thì có thể dẫn đến bệnh Scorbut ở trẻ sơ sinh.
– Đối với bà mẹ cho con bú: Người mẹ sử dụng liều chỉ định thì không thấy ảnh hưởng gì với trẻ nhỏ.
Thuốc không ảnh hưởng đến khả năng lái xe, vận hành máy móc,…
– Bảo quản ở nhiệt độ từ 15-30 độ C, tránh ánh nắng trực tiếp.
– Để xa tầm tay trẻ em.
Thuốc Nat-C 1000 hiện được bày bán tại các nhà thuốc trên toàn quốc với giá bán dao động từ 5.000-6.000 đồng/viên. Để mua được thuốc giá rẻ, uy tín và chất lượng, bạn có thể liên hệ trực tiếp tại website của công ty hoặc số hotline.
– Thuốc có giá thành hợp lý, phù hợp với các đối tượng.
– Tác dụng tốt trong việc tăng cường sức đề kháng và miễn dịch cho cơ thể.
– Khi dùng thuốc có thể gặp tác dụng phụ.
– Có thể gây khó nuốt đối với người già và trẻ em.
Bài viết Xử trí suy hô hấp do nhiễm COVID-19 được dịch bởi Bác sĩ Đặng Thanh Tuấn từ bài viết gốc: Management of Respiratory Distress Syndrome due to COVID-19 infection
Việc xử trí Hội chứng nguy kịch hô hấp cấp tính (ARDS) thứ phát sau bệnh Coronavirus mới 2019 (COVID-19) chứng tỏ là một thách thức và gây tranh cãi. Nhiều nghiên cứu đã gợi ý về khả năng sinh lý bệnh không điển hình để giải thích phổ các biểu hiện ở phổi và toàn thân do vi rút gây ra. Nghịch lý cơ bản của viêm phổi COVID-19 là tình trạng giảm oxy máu nghiêm trọng với cơ học phổi được bảo tồn. Dữ liệu thu được từ kinh nghiệm của nhiều trung tâm trên thế giới đã chứng minh rằng các nỗ lực lâm sàng ban đầu nên được tập trung vào việc tránh đặt nội khí quản và thở máy ở bệnh nhân COVID-19 giảm oxy máu. Mặt khác, bệnh nhân COVID-19 tiến triển hoặc biểu hiện thành ARDS thật sự với mức độ giãn nở phổi giảm điển hình, là một bí ẩn khác đối với nhiều bác sĩ lâm sàng, vì các can thiệp điều trị thường quy cho ARDS vẫn còn là một chủ đề tranh luận.
Hội chứng hô hấp cấp tính nghiêm trọng do nhiễm Coronavirus 2 (SARS-CoV-2) và biểu hiện lâm sàng của nó là Bệnh do Coronavirus 2019 (COVID-19) đưa ra một vấn đề sức khỏe cộng đồng trên toàn thế giới chưa từng có [1]. Theo báo cáo vào ngày 14 tháng 7 năm 2020, đại dịch COVID-19 đã lây nhiễm cho 12.964.809 bệnh nhân và gây ra 570.288 trường hợp tử vong (tỷ lệ tử vong là 4,39%) [2]. Căn bệnh này biểu hiện một quá trình lâm sàng và sinh lý bệnh độc đáo gây khó hiểu về hiệu quả của các phương pháp điều trị hiện có. Bài xã luận này trình bày tổng quan về kinh nghiệm lâm sàng thu thập được từ các trung tâm khác nhau trên thế giới và không nhằm mục đích tạo thành một hướng dẫn cũng như một tiêu chuẩn chăm sóc bệnh nhân viêm phổi COVID-19, cho rằng mức độ bằng chứng đằng sau phương pháp tiếp cận lâm sàng những bệnh nhân này đang tiến triển nhanh chóng.
Các mô hình đề xuất về sinh lý bệnh cơ bản của hội chứng suy hô hấp cấp tính liên quan đến COVID-19 (CARDS) đang tiếp tục được nghiên cứu. Liệu bệnh nhân có CARDS có biểu hiện sinh lý bệnh tương tự đối với ARDS “điển hình” và phù hợp với định nghĩa Tiêu chí Berlin hay không vẫn còn là một chủ đề tranh luận. Dựa trên dữ liệu lâm sàng hiện có, các thành phần sau đã được mô tả ở những bệnh nhân này:
Sốt đã được báo cáo với tỷ lệ mắc khác nhau giữa các loạt trường hợp, dao động từ 43 đến 98% bệnh nhân, do đó không có sốt không loại trừ nhiễm COVID-19 [15,16,17]. Ho là triệu chứng phổ biến thứ hai (59-72%), tiếp theo là đau cơ (15%) và mệt mỏi (23%). Các triệu chứng tiêu hóa (tiêu chảy, buồn nôn và nôn) đã được báo cáo ở 10% bệnh nhân thường trước khi bắt đầu sốt và khó thở [17]. ARDS được mô tả là có ở 17– 41% bệnh nhân này, với thời gian trung bình từ khi có triệu chứng đầu tiên đến khi tiến triển thành ARDS là 8 ngày [4, 17, 18].
Đối với những phát hiện ban đầu trong phòng thí nghiệm, số lượng bạch cầu có xu hướng bình thường và giảm lymphocyte có ở 80% bệnh nhân [19]. CRP đã được phát hiện là tăng liên tục ở những bệnh nhân nhiễm COVID- 19 và có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với mức yêu cầu oxy, và có thể được sử dụng để tiên lượng tử vong [20, 21]. Các giá trị xét nghiệm tiên lượng khác có mối quan hệ trực tiếp với tỷ lệ tử vong trong nhiễm COVID-19 là IL-6, LDH và ferritin huyết thanh và D-dimer [22]. Nồng độ procal- citonin tăng vừa phải ở những bệnh nhân này và không liên quan đến dự đoán tử vong của bệnh một cách nhất quán [19]. Ngoài phản ứng chuỗi polymerase phiên mã ngược (RT-PCR) đối với COVID-19, cấy máu thường quy và PCR virus nên được gửi để loại trừ sự hiện diện của bất kỳ vi sinh vật nào khác là thủ phạm chính hoặc đồng nhiễm [23] .
X quang ngực cho thấy hình kính mờ lốm đốm điển hình, có xu hướng hướng về các trường ngoại vi và đáy của phổi, và độ nhạy của nó đã được báo cáo là khoảng 59% [19, 24]. Liên quan đến các phát hiện của Chụp cắt lớp vi tính (CT), độ nhạy của nó dường như liên quan đến triệu chứng của bệnh nhân tại thời điểm xét nghiệm được thực hiện: 86–97% ở bệnh nhân có các triệu chứng hô hấp và 50% ở bệnh nhân chỉ có các triệu chứng lâm sàng [19 , 25, 26].
Zhou và cộng sự trong một nhóm thuần tập 100 bệnh nhân COVID-19 đã trải qua 272 CT ngực, cho thấy phân bố ngoại vi chiếm ưu thế (62%), tiếp theo là phân bố trung tâm và ngoại vi kết hợp (38%). Đại đa số có tổn thương hai bên phổi (92%), và sự liên quan đáng kể của các vùng giữa, dưới và sau [27]. Không phải tất cả các bệnh nhân nghi ngờ viêm phổi COVID-19 đều cần chụp CT. Quyết định yêu cầu kiểm tra này phải được đưa ra trong từng trường hợp cụ thể dựa trên đánh giá của bác sĩ lâm sàng, do có nguy cơ lây lan mầm bệnh trong quá trình vận chuyển bệnh nhân và hậu quả là tiếp xúc với nhân viên y tế.
Siêu âm phổi ở bệnh nhân viêm phổi COVID-19 cũng đã được mô tả và những phát hiện của nó có vẻ tương quan tốt với kết quả CT. Peng và cộng sự đã mô tả sự hiện diện của các B- line rải rác có xu hướng kết hợp lại khi bệnh tiến triển. Dày đường màng phổi cũng như tràn dịch màng phổi đã được mô tả [28].
Kiểm soát môi trường là điều tối quan trọng cần được xem xét trong cách tiếp cận ban đầu với bệnh nhân viêm phổi COVID-19. Các biện pháp phòng ngừa giọt bắn đã được nhiều tổ chức ủng hộ. Tổ chức Y tế Thế giới và Hiệp hội Chăm sóc Chuyên sâu Úc và New Zealand khuyến cáo các biện pháp phòng ngừa qua đường không khí khi thực hiện các thủ thuật tạo khí dung ở bệnh nhân COVID-19, bao gồm: thông khí bằng mặt nạ, thông khí không xâm nhập, đặt nội khí quản, hút đường thở mở, dùng thuốc khí dung, nội soi phế quản, ngắt kết nối máy thở của bệnh nhân và hồi sức tim phổi. Mặc dù có nguy cơ ô nhiễm cao trong các quy trình này, các bằng chứng hiện tại cho thấy rằng việc sử dụng tỉ mỉ các phương tiện bảo vệ cá nhân có hiệu quả để ngăn ngừa lây nhiễm cho các nhân viên y tế [29,30,31].
Theo dõi diễn biến hô hấp và sự gắng sức là điều cần thiết ở bệnh nhân thở tự nhiên để phát hiện giai đoạn sớm của mệt mỏi hô hấp. Mặc dù các thao tác thở máy không xâm nhập (NIV) đã được áp dụng ở bệnh nhân viêm phổi COVID-19 và các tài liệu về thời điểm đặt nội khí quản thích hợp còn nhiều tranh cãi, hầu hết các tác giả đồng ý rằng khi có suy giảm cơ hô hấp, tình trạng nhiễm toan hô hấp trở nên trầm trọng hơn và quan trọng nhất là tình trạng ý thức giảm, không nên trì hoãn đặt nội khí quản và thở máy [7, 32].
Đối với những bệnh nhân thở tự nhiên với khó thở và giảm oxy máu từ nhẹ đến trung bình, không đáp ứng với ống thông mũi lưu lượng thấp thường quy, cách tiếp cận ban đầu có thể bao gồm sử dụng ống thông mũi lưu lượng cao (HFNC) và định vị nằm sấp khi tỉnh táo dựa trên dữ liệu lâm sàng hạn chế. HFNC, mặc dù ban đầu còn gây tranh cãi do khả năng tạo khí dung của nó, nó được thấy là an toàn trong các nghiên cứu sâu hơn, với độ phân tán khí dung sinh học không khác biệt đáng kể so với các ống thông mũi thông thường [33]. Các biện pháp phòng ngừa trên không khí giữa các nhân viên điều trị nên được duy trì và bệnh nhân nên được đặt trong phòng áp suất âm nếu có [29, 30, 34]. Yang và cộng sự cho thấy khả năng sống sót cao hơn ở những bệnh nhân HFNC khi so sánh với các phương tiện thở máy khác, không xâm lấn hoặc xâm lấn [35]. Định vị nằm sấp khi tỉnh táo bao gồm việc bệnh nhân nằm sấp như một phương pháp để cải thiện sự thanh thải bài tiết và huy động mô phổi xẹp phổi tại các đáy phổi vùng phụ thuộc [34].
Hỗ trợ NIV (áp lực đường thở dương liên tục [CPAP] hoặc áp lực đường thở dương hai mức [BiPAP]) đã được sử dụng ở bệnh nhân COVID-19 như một nguồn lực cuối cùng để ngăn cản đặt nội khí quản sau khi HFNC thất bại và định vị nằm sấp khi tỉnh, mặc dù không có khuyến cáo chính thức nào về việc sử dụng chúng đã được giải phóng do nguy cơ tạo khí dung [29]. CPAP dường như mang lại lợi thế lớn nhất trong số NIV cho bệnh nhân viêm phổi COVID-19, vì nó cung cấp áp lực đường thở trung bình lớn nhất dẫn đến việc huy động phế nang hiệu quả hơn khi so sánh với BiPAP. Phương pháp sau này đã được chứng minh là thích hợp hơn cho một số nhóm bệnh nhân cụ thể có các bệnh đồng mắc khác (tức là bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, suy tim sung huyết) [7]. Do khả năng tạo khí dung của các kỹ thuật NIV truyền thống, việc sử dụng “CPAP mũ trùm đầu” (helmet) như một phương tiện để thông khí không xâm nhập đã được đề xuất [36]. Nên hạn chế tối đa việc sử dụng thuốc giãn phế quản và thay vào đó nên sử dụng ống hít định lượng theo liều khí dung [30].
Điều tối quan trọng là phải theo dõi chặt chẽ các nỗ lực hô hấp ở bệnh nhân COVID-19 tự thở (bất kể sử dụng HFNC hoặc NIV hỗ trợ). Trong bối cảnh của CARDS sớm, hoạt động cơ hô hấp cao có thể dẫn đến việc tạo ra áp lực xuyên phổi cao và căng thẳng phổi với hậu quả là tăng nguy cơ phát triển cái gọi là “bệnh nhân tự gây tổn thương phổi” (P-SILI, patient self-inflicted lung injury) [8, 37].
Đặt nội khí quản và thở máy càng sớm càng tốt bất kể kiểu hình của viêm phổi COVID-19, khi các dấu hiệu suy hô hấp có liên quan đến tình trạng giảm oxy máu nặng. Các chiến lược thở máy sau đây thể hiện ý kiến chuyên gia, dựa trên bằng chứng hiện tại và đang phát triển nhanh chóng ở bệnh nhân CARDS, do đó cần có thêm dữ liệu để xác nhận hiệu quả của các thao tác này.
Gattinoni và cộng sự đề xuất các sửa đổi phù hợp với các nguyên tắc ARDS thông thường dựa trên kiểu hình của bệnh viêm phổi COVID-19. Ở những bệnh nhân kiểu hình loại 1 được đặt nội khí quản, việc kiểm soát tình trạng giảm oxy máu nên được hướng dẫn để cải thiện sự không phù hợp về thông khí/tưới máu bằng thể tích khí lưu thông tự do (7-8 ml/kg thể trọng lý tưởng, để tránh xẹp phổi tái hấp thu), mức PEEP hạn chế (8-10cmH2O) và giữ nhịp thở < 20 nhịp thở mỗi phút [6, 7, 32].
Khi tổn thương phổi tiến triển, kiểu hình loại 2 phát sinh theo một mô hình tương tự của ARDS “điển hình” (thâm nhiễm hai bên, giảm độ giãn nở của hệ thống hô hấp và tăng trọng lượng phổi) [6]. Cách tiếp cận tiêu chuẩn của thông khí bảo vệ phổi thông qua thể tích khí lưu thông thấp (6 ml/kg thể trọng lý tưởng), mức PEEP (< 10 cmH2O), mức FiO2 được dung nạp để tránh tưới máu mô kém, áp lực bình nguyên < 30 cmH2O, áp lực đẩy thấp hơn (mục tiêu 13 –15 cmH2O) và tăng CO2 máu cho phép luôn được chứng minh là một can thiệp được chấp nhận cho CARDS [38]. Mục đích là để tránh tổn thương phổi do máy thở bằng cách giảm căng thẳng phổi và mạch máu [32]. Trong khi một số tác giả ủng hộ mức PEEP cao (< 15 cmH2O) ở bệnh nhân kiểu hình 2, dựa trên độ đàn hồi của phổi cao và tăng mô phổi không thông khí [8], một nghiên cứu quan sát đơn trung tâm cho thấy khả năng huy động của phổi kém mặc dù PEEP cao. Huy động phổi rõ ràng hơn sau khi chuyển sang tư thế nằm sấp trong quần thể [39].
Thông khí giải phóng áp lực đường thở (APRV, Airway pressure release ventilation) có thể được xem xét sớm trong quá trình đặt nội khí quản cho bệnh nhân ARDS từ trung bình đến nặng, để cung cấp huy động phế nang đầy đủ. Việc áp dụng APRV tiếp tục bị hạn chế do nhiều nhà cung cấp không quen với chế độ thông khí này hoặc phương pháp chuẩn độ của nó [40]. Chưa có dữ liệu nào được công bố về tiện ích APRV ở những bệnh nhân có CARDS.
Nằm sấp giúp làm giảm tình trạng giảm oxy máu nghiêm trọng do giảm các vùng phổi bị quá căng chướng, thúc đẩy huy động phế nang và giảm sự không phù hợp thông khí/tưới máu [39]. Thử nghiệm nằm sấp ở Bệnh nhân ARDS nặng (PROSEVA), được thực hiện bởi Guerin et al. đã chứng minh giảm đáng kể tỷ lệ tử vong trong 28 ngày và 90 ngày ở bệnh nhân ARDS nặng [41]. Định vị nằm sấp đã được ủng hộ ở những bệnh nhân được đặt nội khí quản với CARDS. Pan và cộng sự cho thấy khả năng huy động của phổi tăng lên và cải thiện PaO2/FiO2 sau khi nằm sấp ở bệnh nhân CARDS trung bình [39]. Trở ngại chính tiếp tục là việc thực hiện và phổ biến giữa các cơ sở. Nhân viên điều dưỡng và trị liệu hô hấp được đào tạo và có trình độ là yếu tố quan trọng nhất để đạt được kết quả thành công, vì các biến cố nghiêm trọng đe dọa tính mạng có thể xảy ra bất kỳ lúc nào (tự rút nội khí quản, huyết động không ổn định, thiếu thuốc an thần, loét tì đè) [29, 30].
Liên quan đến phong tỏa thần kinh cơ, trong nỗ lực tránh rối loạn nhu mô máy thở, điều chỉnh thể tích khí lưu thông và giảm sức cản của đường thở với mục tiêu giảm viêm nhu mô phổi, các thuốc ngăn chặn thần kinh cơ đã được đưa vào như một phần của liệu pháp thay thế cho ARDS nặng [42]. Chưa có thử nghiệm lâm sàng chính thức hoặc cơ sở bằng chứng nào được công bố về việc sử dụng phong tỏa thần kinh cơ ở bệnh nhân CARDS. Surviving Sepsis Campaign khuyến cáo sử dụng các liều thuốc chẹn thần kinh cơ ngắt quãng để tạo điều kiện thông khí bảo vệ phổi ở bệnh nhân COVID-19 [29].
Liên quan đến thuốc giảm viêm cho bệnh nhân CARDS, thử nghiệm RECOVERY, một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng đa trung tâm, đã chứng minh rằng bệnh nhân trong nhóm can thiệp (dùng Dexamethasone 6 mg trong 10 ngày, qua đường ruột hoặc tiêm tĩnh mạch) đã giảm tử vong lên đến một phần ba ở bệnh nhân nhập viện với các biến chứng hô hấp nặng do COVID-19. Hiệu quả dường như nổi bật hơn ở bệnh nhân thở máy (số lượng cần điều trị: 8) và trung bình ở những người chỉ cần oxy bổ sung (số lượng cần điều trị: 25). Thử nghiệm không cho thấy bất kỳ lợi ích nào từ Dexamethasone ở những bệnh nhân không cần hỗ trợ hô hấp [43].
Giãn mạch phổi có chọn lọc được cho là cải thiện ARDS thứ phát do tái phân phối máu từ những vùng thông khí kém sang những vùng có thông khí cao hơn, do đó làm giảm phân suất shunt và điều chỉnh tình trạng giảm oxy máu. Nitric Oxide và Prostaglandin (ví dụ PGI2 [epoprostenol]), mặc dù có đặc tính giãn mạch phổi của nó đã không chứng minh được lợi ích tử vong trong ARDS [44]. Việc sử dụng Nitric Oxide ở bệnh nhân COVID-19 còn nhiều tranh cãi [45]. Một số tác giả ủng hộ hoạt động chống vi rút tiềm tàng của nó sau kết quả của một nghiên cứu được thực hiện trong đợt bùng phát SARS-CoV năm 2004 [46]. Hiện tại, không có khuyến cáo sử dụng thuốc giãn mạch phổi ở bệnh nhân ARDS do COVID-19, ngoài một nguồn lực cuối cùng (liệu pháp cấp cứu) cho tình trạng giảm oxy máu kháng trị [29].
Khi tình trạng giảm oxy máu kháng trị xảy ra và các liệu pháp thay thế thất bại, việc sử dụng các biện pháp điều trị ngoại cơ thể trở nên thích hợp. Mặc dù việc sử dụng ECMO đã tăng lên đáng kể trong những thập kỷ qua, việc sử dụng nó vẫn còn gây tranh cãi. Hai RCT đa trung tâm lớn đã đưa ra quan điểm trái ngược nhau về việc sử dụng ECMO trong ARDS. Thử nghiệm CESAR (Hỗ trợ thở máy thông thường so với ECMO cho ARDS nặng) được thực hiện bởi Peek et al. (2009), đã đưa ra những kết quả đáng khích lệ chứng tỏ sự cải thiện đáng kể về khả năng sống sót mà không bị khuyết tật nặng sau 6 tháng. Các tác giả của thử nghiệm này kết luận rằng đối với những bệnh nhân bị ARDS nặng với các nguyên nhân có thể hồi phục không đáp ứng với xử trí thông thường thì nên thiết lập ECMO. Mặt khác, thử nghiệm EOLIA (ECMO để cấp cứu chấn thương phổi trong ARDS) do Combes et al. (2018), kết luận rằng tỷ lệ tử vong trong 60 ngày không thấp hơn đáng kể ở những bệnh nhân trong nhóm ECMO và do đó thử nghiệm đã bị dừng lại theo các quy tắc được chỉ định trước, mặc dù một phân tích post-hoc về thử nghiệm này đã chứng minh xác suất tử vong sau đó được hưởng lợi từ ECMO trong quần thể được phân tích với ARDS rất nặng [47, 48].
Trước những kết quả gây tranh cãi này và trong bối cảnh đại dịch toàn cầu do COVID-19 gây ra, với nhiều bệnh nhân dự kiến phát triển ARDS nặng, Tổ chức Hỗ trợ Sự sống Ngoài cơ thể (ELSO) đã đưa ra một hướng dẫn đồng thuận về việc sử dụng ECMO ở những bệnh nhân này. ELSO nhấn mạnh rằng kinh nghiệm của trung tâm cũng như nhà cung cấp và đào tạo nhóm là những yếu tố nổi bật nhất để xác định việc sử dụng các kỹ thuật ngoài cơ thể ở bệnh nhân COVID-19. Liên quan đến ưu tiên bệnh nhân, hướng dẫn đồng thuận khuyến nghị ưu tiên cao nhất cho những bệnh nhân nhỏ tuổi có bệnh nhẹ hoặc không mắc bệnh đồng mắc cũng như các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe, nhấn mạnh rằng những bệnh nhân có tiên lượng xấu, tuổi cao với nhiều bệnh đồng mắc, tình trạng không hồi sức, bệnh giai đoạn cuối hoặc tổn thương hệ thần kinh trung ương nghiêm trọng cần được loại trừ.
Để xác định tính đủ điều kiện của bệnh nhân, sự đồng thuận của ELSO về CARDS cung cấp một thuật toán tập trung vào việc quản lý thận trọng (định vị nằm sấp, phong tỏa thần kinh cơ, thuốc giãn mạch phổi, PEEP cao, thao tác huy động) cho bệnh nhân có tỷ lệ PaO2/FiO2 <150 mmHg. Nếu bệnh nhân bị giảm oxy máu kháng trị ngày càng nặng (tỷ lệ PaO2/FiO2 <80 mmHg trong> 6 giờ, hoặc tỷ lệ PaO2/FiO2 <50 mmHg trong> 3 giờ) hoặc các dấu hiệu của tưới máu mô kém và tăng CO2 máu (pH <7,25 với PaCO2> 60 mmHg), khi đó bệnh nhân nên được xem xét điều trị ECMO, nếu không có chống chỉ định. Ngoài ra, đối với những bệnh nhân có tỷ số PaO2/FiO2 > 150 mmHg, nhưng có dấu hiệu tưới máu mô kém và tăng CO2 máu, ECMO cũng nên được xem xét [49].
Việc quản lý ARDS thứ phát sau nhiễm COVID-19 đặt ra những tình huống khó xử đáng kể về mặt lâm sàng, hậu cần và đạo đức. Bản thân tình trạng giảm oxy máu không phải là chỉ định đặt nội khí quản nếu cơ học phổi được bảo tồn. Ngược lại, những nỗ lực thở kéo dài hoặc tự phát hoặc được hỗ trợ với NIV, trong khi tình trạng ý thức xấu đi và tình trạng nhiễm toan hô hấp phát triển là bất lợi. Cần cố gắng xác định những bệnh nhân bị suy hô hấp nghiêm trọng cần đặt nội khí quản và thở máy vì sự chậm trễ trong các can thiệp này có thể dẫn đến kết cục kém. Thiết lập một giao thức thể chế phù hợp cho phương pháp tiếp cận lâm sàng ở những bệnh nhân này trong khi duy trì sự an toàn của nhà cung cấp dịch vụ là điều tối quan trọng.
Dược sĩ Lưu Anh tốt nghiệp trường Đại học Dược Hà Nội hệ chính quy. Trường Đại học Dược Hà Nội là ngôi trường đào tạo Dược sĩ đầu tiên tại Việt Nam với bề dày kinh nghiệm và uy tín hàng đầu. Là thành viên của Heal Central Việt Nam, dược sĩ Lưu Anh với mong muốn chia sẻ kiến thức chuyên môn về lĩnh vực y tế sức khoẻ đến cộng đồng, đẩy xa tin giả, tin thiếu chính xác, tin không có tính khoa học.
Các bài viết chia sẻ từ Dược sĩ Lưu Anh được tổng hợp lại từ các bài viết của Bác sĩ, Dược sĩ chuyên môn hàng đầu tại Việt Nam, các bài dịch từ phiên bản Tiếng Anh của các tạp chí y khoa lớn như Pubmed, Drugs.com, FDA, The Lancet,... Đặc biệt, Dược sĩ Lưu Anh liên tục cập nhật các Guideline hướng dẫn điều trị mới nhất của các bệnh được biên dịch lại bởi các bác sĩ đầu ngành từ các tài liệu Guideline của tổ chức uy tín trên thế giới mang đến nguồn tài liệu uy tín, cập nhật mới liên tục cho cộng đồng chuyên môn bác sĩ, dược sĩ.